Bảo tàng Hội Anhttps://hoianmuseum.com/uploads/logo-baotang.png
Trong sự trao đổi hàng hóa giữa thương cảng Hội An vào thế kỷ XVII, XVII, XIX với các thương nhân quốc tế không thể thiếu sự gắn kết giữa Hội An và các vùng nguyên liệu ở phía Tây Quảng Nam. Nay, chúng tôi xin tổng hợp thông tin phỏng vấn sâu một số người khai thác trầm lâu năm ở Nông Sơn, Tiên Phước, Nam Trà My nhằm góp phần làm rõ thêm nội dung khai thác và trao đổi trầm hương Quảng Nam - ở bảo tàng Thổ sản Hội An, số 57 Trần Phú – vừa mới đi vào hoạt động. Theo các vị đi trầm(khai thác trầm) cao niên cho biết, hoạt động khai thác trầm hương ở Quảng Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp trở về trước đã có nhưng ít còn tư liệu dầu là tư liệu ký ức. Hoạt động khai thác trầm được phục hồi từ sau ngày giải phóng với sự hợp tác cùng khai thác với những thợ khai thác trầm đến từ tỉnh Phú Khánh (Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay). Ông Nguyễn Thỷ kể rằng đã đi trầm cách đây 40 năm, là người đầu tiên ở làng này đi trầm sau đó trở bàu trưởng đoàn khai thác. Vào thời gian đó, ông Trung, ông Măm, ông Dũng… ở tỉnh Phú Khánh có hướng dẫn đi trầm. Ông Hồ Văn Sơ thì cho biết đã đi trầm từ năm 1986 với 11 chuyến trầm, sau chuyển sang buôn trầm và nghỉ nghề vào năm. Ngoài Nông Sơn, ở miền Tây Đại Lộc, Tiên Phước, Trà My… cũng có nghề khai thác trầm khá phát triển. Cây dó trầm phân bố chủ yếu ở các cánh rừng Ngọc Lĩnh, vùng Sông Tranh, Sương Mãi, Cổng Trâu, Làng Hồi, Khe Ốc, Khu Máy bay, Ngầm Hai, Khu Nước Trong, Nỗng Trạch, Bến Độ, Truông Nước của huyện Phước Sơn hoặc ở Tiên Phước, phía Tây huyện Đại Lộc… Khai thác trầm thường đi từng bàu (đoàn), có 70, 80 người, chia ra các ban (nhóm), mỗi ban có 4, 5 người ở Phú Khánh tham gia. Nhiều đoàn khai thác có cả 10 ban, dựng 10 trại lân cận nhau. Trước khi đi, làm lễ cúng thượng ban tại nhà bàu trưởng, vái cầu đất đai, cầu tài, cầu an, cầu may, lễ vật chính là gà giò luộc, sau lễ có coi giò gà để đoán cát hung của chuyến đi, chân gà kết theo kiểu ngà voi là tốt nhất. Bàu trưởng là người biết tên các xứ đất sẽ đến để cúng vái, lãnh đạo tinh thần, thực hành tín ngưỡng và quản trị tài chính. Trước khi đi, người trong đoàn có hẹn ngày gặp tại một địa điểm cụ thể để nhờ người dân tộc bản địa gửi hàng về. Mỗi chuyến đi mất khoảng một tháng, nếu sớm được nhiều trầm thì về trước. Công tác chuẩn bị cho mỗi chuyến đi phải kỹ lưỡng, gồm có 1 ang gạo, đường đen, đậu xanh, nếp, rượu ngon, vải dầu áo mưa (để trải trên trại), dụng cụ là rìu, cúp, tỉa, dũm, các thành viên chia nhau ra mang trên ba lô. Bàu trưởng lo liên lạc, chi tiền nhờ người bản địa chỉ đường để không bị bắt giữ thu gạo, hàng trầm. Sau 7 ngày đi từ nhà thì đến được nơi khai thác, thợ trầm chặt cây rừng dựng trại, bàu trưởng/ban trưởng dâng rượu, xôi chè, đường để cúng (đến ngày nào cúng ngày đó) cầu thổ địa, thần rừng phù hộ việc khai thác thuận lợi. Tiếp đến các thợ mài cúp, rựa, tìm cây dó trong 2,3 ngày, nếu không có thì chuyển đến chỗ khác để tìm kiếm.
Các thợ trầm cho biết trầm hương có từ cây dó ở các sườn núi trong rừng nhưng có cây dó có trầm, có cây không cho trầm kể cả cây dó có đường kính trên 1m. Thường thì sau khi phát hiện cây dó có khả năng cho trầm thì dùng cưa, rìu, cúp hạ/đốn cây để tìm dấu trầm hoặc không đốn cây mà băm thẳng vào thân cây để tìm trầm. Thời chống Pháp, người Trung Phước không hạ cây để tìm trầm mà băm cây tìm dấu trầm. Trầm ăn (biểu hiện) trên thân cây dó từ dưới gốc lên trên ngọn là phổ biến hơn hoặc cũng có khi từ trên cây xuống gốc. Đa số trầm thường ăn theo dạng mắt kiến, mắt tử. Có dạng ăn từ trên ngọn xuống thân hoặc dạng ăn từ gốc lên ngọn. Các dạng ăn (biểu hiện) của trầm trên thân cây dó theo cách gọi của dân trong nghề là: Kiến điệp, hình giống miếng bánh dầu hoặc con rùa, có lỗ kiến nhỏ; Kiến ống: Lỗ theo hình chiều dọc; Kiến ổ qua: có dạng khía, hột giống ổ qua; Kiến kim: Có dạng theo hình nhiều lỗ kim; Hột mít: Có dạng hình hột mít; Đổ/đỗ nhím: Hình soắn ốc, giật đuôi dùi, to bằng ấm trà; Mắc tử: Trên mắc có soáy giác nhỏ giống trái cam…Theo kinh nghiệm, nhìn cây dó có vỏ sần sượn, già, sủi màu là có khả năng cho trầm cao hoặc ngửi hương trầm được đưa theo gió từ hướng nào là đoán vùng đó có cây cho trầm. Khi thăm dò phát hiện cây nghi có trầm, bàu trưởng được quyền chêm nọng để tìm lòng xa lanh (lõm chuối) – tâm điểm phát tích trầm (?) thường có thịt có màu vàng mỡ gà, ở ngoài nhìn vào trong có màu đen. Sau đó, người thợ dùng cưa, rìu, cúp cưa cây, chặt, đẽo theo dạng trầm ăn trong thân cây rồi bỏ vào ba lô đem về. Vào buổi tối (tại trại), thợ làm gọn, sạch dần thân cây và về đến nhà tiếp tục tỉa cho sạch, đẹp mới bán. Ông Nguyễn Thỷ ở Trung Phước kể rằng lúc trúng nhất đoàn được 16 kg trầm, phân chia lợi nhuận đều cho cả nhóm (sau khi trừ tiền sắm chuyến - lo hậu cần). Đoàn khai thác về đến nhà, nếu có trầm, sẽ tổ chức cúng tạ có gà, heo tại nhà trưởng đoàn/nhóm gọi là lễ hạ ban để tạ thần rừng, thổ địa. Theo ông Thỷ, ông Sơ, trầm được phân loại theo các hạng cơ bản sau: 1,2,3,4,5, hàng shô. Trong đó, loại 1 có giá trị cao nhất, hiện nay 1kg trầm loại 1 có giá khoảng 10 tỷ đồng. Cách phân hạng trầm thường gắn với các dạng ăn (biểu hiện) của trầm như: Hột mít thường là loại 1,2, Kiến điệp thường là loại 2, Kiến ổ qua: loại 3, Kiến kim: loại 4, Mắc tử: thuộc loại 3,4. Có cách phân loại khác là hàng rừng – được khai thác từ rừng, hàng vườn – dó được trồng ở vườn, dùng các kỹ thuật sinh học tác động để cho trầm, có giá rẻ hơn hàng rừng. Phân loại theo nguồn gốc xuất xứ: hàng Indonesia, hàng Việt Nam… Ông Hồ Văn Sơn ở Trung Phước kể, những năm 1986 – 1989, sau khi khai thác được, ông thường theo ghe nguồn từ Trung Phước xuống Đà Nẵng một cách lặng lẽ. Sau đó thì vào thành phố Hồ Chí Minh bán để đạt được giá cao hơn. Từ cuối thập kỷ 90, thế kỷ XX đến nay, hoạt động trồng dó tại vườn đồi được giao cho các hộ gia đình bắt đầu phát triển thì hoạt động chế tác trầm mỹ nghệ trở nên sôi động hơn. Từ trầm nguyên khối được thợ tỉa, xả ra xác: dùng cưa, tỉa, dũm – ráp cảnh: dùng nạo, dủm, phay, cưa - ráp mí (vá lại): dùng keo, dán – làm nguội: dùng cưa, tỉa lớn, dùng nạo, dùng dũa, giấy nhám, băng xô chùi sạch máy thổi bụi để tạo ra các tác phẩm trầm hương nghệ thuật là các pho tượng, bảo tháp, mô hình kiến trúc, các đồ án trang trí cát tường... Trầm hương, thân cây dó cũng được xay bột, nấu để tẩm – hấp, tạo thành các vật lưu niệm (quạt, vòng đeo tay, hạt chuỗi, hộp đựng nữ trang, lọ hoa…) hoặc nấu, in khuôn để làm hương, giác nụ … hoặc giác mảnh để đốt, xông,… Về giá trị kinh tế, hàng trầm hương có giá trị từ vài chục ngàn đồng đến hàng chục tỷ đồng tùy theo kích cỡ, loại hình sản phẩm, hạng giá trị của trầm. Hiện nay, ở Nông Sơn, Đại Lộc, Tiên Phước… có nhiều cơ sở chế tác sản phẩm trầm hương bằng máy nấu, hấp, gia công hiện đại, thu được nhiều lợi nhuận. Những thông tin thực địa về khai thác trầm hương kể trên là tư liệu quan trọng minh chứng cho sự chuyển tiếp văn hóa, hoạt động khai thác, kinh tế lâm thổ sản ở vùng Tây Quảng Nam. Đồng thời khi kết hợp thông tin thực địa với nguồn tư liệu về hoạt động buôn bán ở các hiệu buôn lâm thổ sản lâu đời của Hội An sẽ thấy được sự gắn kết trong trao đổi lâm thổ sản giữa Hội An với miền núi, trung du để tạo nên nguồn hàng hóa xuất khẩu của đô thị thương cảng xưa.
Nguồn tin: * Tài liệu tham khảo, trích dẫn: 1.Lê Qúi Đôn (1977): Phủ biên tạp lục, Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội. 2. Tư liệu điều tra thực địa của tác giả tại các huyện Nông Sơn, Tiên Phước, Nam Trà My năm 2022.